Hậu Quả Pháp Lý Của Việc Nam Nữ Sống Chung Như Vợ Chồng Mà Không Đăng Ký Kết Hôn

  1. 1. Thế nào là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn?
    1. 1. Khái niệm chung sống như vợ chồng
    2. 2. Các hình thức chung sống như vợ chồng hiện nay
  2. 2. Hậu quả pháp lý của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
    1. 1. Hậu quả pháp lý đối với các bên nam nữ sống chung như vợ chồng
    2. 2. Hậu quả pháp lý đối với con chung
    3. 3. Hậu quả pháp lý đối với quan hệ về tài sản
    4. 4. Hậu quả pháp lý đối với bên thứ ba có liên quan

Đăng ký kết hôn là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân giữa vợ và chồng. Tuy nhiên, hiện nay, xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, điều này có thể để lại nhiều hậu quả pháp lý cho chính những đối tượng chung sống và những người liên quan đến họ. Vậy, hiểu thế nào về nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn? Hậu quả pháp lý của hiện tượng này được quy định như thế nào?

Dưới đây là những kiến thức pháp luật cần biết về Hậu quả pháp lý của việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, được Luật Apollo tổng hợp và hướng dẫn một cách chi tiết nhất!

Căn cứ pháp lý:

Bộ luật dân sự 2015

Luật Hôn nhân gia đình 2014

Thế nào là nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn?

Khái niệm chung sống như vợ chồng

Việc nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng là việc hai cá nhân thỏa thuận chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Chung sống như vợ chồng có một số đặc điểm như sau:

  • Hai bên nam nữ chung sống với nhau nhưng không bị ràng buộc về mặt pháp luật
  • Nam nữ sống chung với nhau sinh hoạt, chia sẻ tình cảm, vật chất, tinh thần một cách thường xuyên, công khai và được người khác thừa nhận.
  • Chủ thể tham gia chung sống như vợ chồng nhằm nhiều mục đích khác nhau.
  • Chủ thể của quan hệ chung sống như vợ chồng khá đa dạng.

Các hình thức chung sống như vợ chồng hiện nay

Chung sống như vợ chồng không trái pháp luật: nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không bị coi là trái pháp luật là việc chung sống như vợ chồng không vi phạm các hành vi cấm quy định tại các điểm b, c, d khoản 2 điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014.

Chung sống như vợ chồng trái pháp luật: nam nữ sống như vợ chồng trái pháp luật là việc mà các bên sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn, đồng thời việc chung sống này vi phạm quy định cấm tại điều 5 Luật Hôn nhân gia đình nhưng vẫn tồn tại trên thực tế. Chung sống như vợ chồng trái pháp luật có thể bao gồm các trường hợp sau:

  • Chung sống với nhau khi một bên hoặc cả hai bên dưới tuổi quy định (chưa đến tuổi kết hôn tại điểm a khoản 1 điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014)
  • Chung sống với nhau nhưng một trong hai người hoặc cả hai người đã có vợ hoặc có chồng
  • Chung sống với nhau giữa những người cùng dòng máu trực hệ, giữa những người có họ trong phạm vi 3 đời, giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi, giữa những người đã từng là cha mẹ nuôi với con, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con của vợ, mẹ kế với con của chồng.

Hậu quả pháp lý của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

Trong quá trình chung sống với nhau giữa nam và nữ sẽ tạo được khối tài sản chung, sinh con chung và hình thành các  quan hệ dân sự với bên thứ ba… nhưng việc họ không đăng ký kết hôn nên quan hệ này sẽ không được pháp luật thừa nhận, từ đó nảy sinh các hậu quả pháp lý như sau

Hậu quả pháp lý đối với các bên nam nữ sống chung như vợ chồng

Khoản 1 điều 14 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định:

“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng”

Theo quy định này, nam nữ có đủ các điều kiện quy định điều 8 Luật Hôn nhân gia đình 2014 mà thực hiện việc chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn thì không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng trước pháp luật. 

Như vậy,  các quyền và nghĩa vụ về nhân thân giữa vợ chồng được quy định từ điều 17 đến điều 23 Luật Hôn nhân gia đình 2014 không được pháp luật bảo vệ trong trường hợp có phát sinh sự kiện pháp lý hoặc có tranh chấp xảy ra. Chẳng hạn, những người này sẽ không được thừa kế  tài sản của nhau khi một trong hai bên chết hoặc không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng với nhau như cặp vợ chồng được pháp luật thừa nhận.

Hậu quả pháp lý đối với con chung

Trong quá trình sống chung, các cặp đôi sẽ sinh con chung từ đó sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái. Quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con cái được quy định rõ trong Luật Hôn nhân gia đình không có sự phân biệt giữa con được sinh ra từ các cặp vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hay có đăng ký kết hôn. Điều 15 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định như sau:

“Quyền, nghĩa vụ giữa nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng và con được giải quyết theo quy định của Luật này về quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con.”

Điều 69 Luật Hôn nhân gia đình quy định về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ, theo đó, cha mẹ không được phân biệt đối xử giới tính giữa các con, không biệt con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hay ngoài thời kỳ hôn nhân, bố mẹ có đăng ký kết hôn hay không, không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, không được phép xúi giục con làm điều vi phạm pháp luật. Cha mẹ có nghĩa vụ chăm lo, nuôi dưỡng giáo dục các con con, trông nom, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, có nghĩa vụ giám hộ hoặc đại diện cho con khi chưa thành niên và mất năng lực hành vi dân sự.

► Như vậy, con cái của nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được pháp luật thừa nhận như con sinh ra trong những cặp vợ chồng mà có đăng ký kết hôn.

Hậu quả pháp lý đối với quan hệ về tài sản

Điều 16 Luật Hôn nhân gia đình 2014 quy định

“1. Quan hệ tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.

2. Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được coi như lao động có thu nhập.”

⇒ Như vậy pháp luật hiện hành không thừa nhận quan hệ về tài sản giữa những cặp đôi chung sống như vợ chồng là hợp pháp như những cặp vợ chồng có đăng ký kết hôn. Khi có tranh chấp về tài sản phát sinh, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 tôn trọng sự thỏa thuận của các bên; nếu không thỏa thuận được mới áp dụng các quy định của pháp luật dân sự.

Các tài sản chung phát sinh trong quá trình sống chung không được xác định như tài sản chung của vợ chồng mà chỉ được xác định là tài sản chung giữa các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự thông thường. Nghĩa vụ đối với tài sản chung tương ứng với phần quyền của mỗi chủ sở hữu. Mỗi chủ sở hữu chung đều có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình. Việc chiếm hữu, sử dụng định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung được giải quyết dựa trên cơ sở thỏa thuận của các bên hoặc theo quy định pháp luật.

Ngoài ra, việc giải quyết quan hệ tài sản phải đảm bảo quyền và lợi ích của phụ nữ và con, điều này có nghĩa là người phụ nữ dù không trực tiếp làm ra khối tài sản chung mà làm các công việc khác trong gia đình như nội trợ, chăm sóc con cái cũng được coi là có thu nhập. Việc quy định như vậy nhằm bảo đảm tốt hơn quyền lợi chính đáng của phụ nữ và trẻ em.

Hậu quả pháp lý đối với bên thứ ba có liên quan

Việc nam nữ sống chung như vợ chồng dễ khiến người thứ ba nhầm tưởng họ là vợ chồng hợp pháp và có thể đại diện cho nhau trong một số quan hệ mà Bộ luật Dân sự và Luật Hôn nhân gia đình quy định. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nam nữ sống chung vợ chồng mà không đăng ký kết hôn sẽ không đương nhiên phát sinh quan hệ đại diện giống như giữa vợ chồng hợp pháp.

Ngoài ra, việc sống chung như vợ chồng với người đã có vợ hoặc có chồng hoặc cả hai bên đã có gia đình sẽ ảnh hưởng rất lớn tới quyền và lợi ích của người vợ, người chồng hợp pháp. Do vậy, pháp luật quy định đây là một trong các trường hợp chung sống trái pháp luật.

Nhìn chung, việc chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn đang ngày càng trở nên phổ biến trong cuộc sống hiện đại ngày nay. Hiện tượng này có thể ảnh hưởng lớn tới đời sống của nhiều người, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh chặt chẽ hơn từ pháp luật. 

Nếu bạn đang gặp phải những vấn đề về Hậu quả pháp lý của việc nam nữ sống chung như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, hãy liên hệ ngay tới tổng đài tư vấn pháp luật trực tuyến của chúng tôi để được tư vấn miễn phí:

Công ty Luật TNHH Apollo với đội ngũ Luật sư và Chuyên viên tư vấn giỏi, tâm huyết, có nhiều năm kinh nghiệm trong ngành, chúng tôi luôn coi việc bảo vệ quyền lợi cho khách hàng là sứ mệnh hành nghề Luật sư của của mình, đồng hành với thân chủ giải quyết triệt để mọi rủi ro pháp lý.

Apollo cam kết cung cấp dịch vụ tư vấn pháp luật chuyên sâu, toàn diện cho cá nhân và doanh nghiệp, sự hài lòng của quý khách là niềm hân hạnh của Công ty chúng tôi!

Apollo

 Sáng tạo giá trị - Kiến tạo Bình an

Để lại Bình luận

Email của bạn sẽ được giữ kín, các thông tin cần điền sẽ đánh dấu *

Đánh giá*

Họ tên *

Email *

Bài viết liên quan

Chọn bài viết hiển thị
Không Công Nhận Quan Hệ Vợ Chồng - Luật Apollo

luatapollo

Thứ Sáu, 19 Tháng Tám 2022

Không Công Nhận Quan Hệ Vợ Chồng - Luật Apollo
Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng Cho Con Sau Ly Hôn - Luật Apollo

luatapollo

Thứ Sáu, 19 Tháng Tám 2022

Nghĩa Vụ Cấp Dưỡng Cho Con Sau Ly Hôn - Luật Apollo
Ly Hôn Khi Vợ Đang Mang Thai - Luật Apollo

luatapollo

Thứ Sáu, 19 Tháng Tám 2022

Ly Hôn Khi Vợ Đang Mang Thai - Luật Apollo
Tiêu đề
Chỉnh sửa ảnh liên kết